Text Link Underline Remover
   
Tab
 Trang chủ    Giới thiệu chung    Hoạt động    Trung tâm y học cổ truyền    Sản phẩm    Tài liệu tham khảo   Liên hệ
     index noidung 1
Thận và Bàng Quang



A. Biện chứng và luận trị

“Thận là gốc của tiên thiên”, công năng sinh lý là chủ tàng tinh, chủ nước. Trong thận có chứa
nguyên âm, nguyên dương chỉ nên giữ gìn, không nên hao tiết. Lúc biến hoá bệnh lý phần
nhiều là hư chứng, được chia làm 2 loại lớn: Thận âm hư và thận dương hư, trong đó bao gồm
nhiều loại bệnh về sinh dục, tiết niệu, thần kinh, hệ thống nội tiết. Chứng bệnh thường thấy của
bàng quang là thấp nhiệt.
 

1. Thận âm hư
a. Triệu chứng
: Đầu váng, mắt hoa, tai ù, tai điếc, răng lợi lung lay hoặc đau, mất ngủ, gần
tối miệng khô, ngũ tâm phiền nhiệt, mồ hôi trộm, lưng gối mỏi đau, hoặc đau xương chầy,
đau mắt cá chân, di tinh, lưỡi hồng khô, hoặc có rêu xanh, mạch tế sác, nếu kiêm thấy gò
má hồng, môi đỏ, ham tình dục, tiểu tiện ít, đỏ, nửa đêm miệng khô nhiều, mạch huyền
sác hoặc huyền tế sác là âm hư hoả vượng (huyền, tế, sác: Căng, nhỏ, nhanh).
b. Bệnh lý: Thận âm hư, tân dịch bất túc, tướng hoả(*) vượng thịnh, (thận hoả vượng thịnh).
Tướng hoả là chỉ niệm và dục dã phát động cho hoả. Niệm hoả thuộc gan, dục hoả thuộc
thận. Chủ yếu ở đây là chỉ dục hoả làm cho thấy ngũ tâm phiền nhiệt ra mồ hôi trộm, gần
tối miệng khô (gần tối thuộc âm), âm hư tức dương cang, làm cho thấy đầu váng mắt hoa,
tai ù, tai điếc, mất ngủ. “Thận chủ xương”, thận âm bất túc sẽ thấy lưng gối đau buốt, hoặc
xương chầy đau, gót chân đau. “Răng là chỗ thừa của xương”, xương tuỷ không đầy đủ
làm cho răng đau, lung lay. Thận âm hư, tân dịch không được giữ chắc, sẽ thấy mồ hôi
trộm, di tinh. Âm hư nhiều thì hư hoả vượng, làm cho gò má hồng, môi đỏ, tình dục quá
sức căng thẳng, tiểu tiện ít, đó là chứng của nội nhiệt, tân khuyết; lưỡi hồng, không rêu,
mạch tế sác là tượng lưỡi, tượng mạch của âm hư (mạch nhỏ, nhanh).
c. Phép chữa: Nên tư dưỡng thận âm, dùng Lục vị địa hoàng hoàn. Nếu âm hư hoả vượng
nên tư âm giáng hoả, dùng Tri bá bát vị hoàn. Thần kinh suy nhược, đái đường, lao phổi,
đái tháo(**), công năng tử cung (liệt dạ con) xuất huyết, ghẻ lang kiểu hồng ban cũng thuộc
về thận âm hư hoặc âm hư hoả vượng có thể dùng cách trên mà chữa.
 

2. Thận dương hư (thận dương bất chấn)
a. Triệu chứng
: Sắc mặt ảm đạm, tóc rụng, sợ lạnh, chân tay lạnh, thở ngắn hơi, suyễn, tinh
thần mệt mỏi, tai ù, điếc, răng lợi lung lay, lưng gối mỏi đau (nhẽo mềm), đái ít, phù thũng
hoặc đêm hay đi đái, nước đái vàng hoặc trong, ra mồ hôi, lưỡi béo non, rêu lưỡi trắng
nhuận, mạch hư phù, hoặc trầm trì (***) vô lực. Nếu Mệnh môn hoả suy thì liệt dương, hoạt
tinh (không mộng mà xuất), ỉa chảy mạn tính, tứ chi lạnh, hoặc hụt hơi, hen mà ra mồ hôi,
xích mạch nhược hoặc vi tế trầm trì (****). Nếu đi đái nhiều hoặc đái không cầm, hay đái

(*) Tướng hỏa: Mệnh môn hỏa.
(**)Đái tháo gồm có đái tháo nhạt và đái tháo đạm, đều có chứng uống nhiều, đái nhiều.
(***) Trầm trì: Mạch ấn sâu mới thấy mà rất chậm.
(****) Vi tế trầm trì: Mạch rất nhỏ, chậm, ở rất sâu, ấm mạnh mới thấy.


đêm, đái xong còn rớt không dứt, hoặc tinh xuất sớm, lưỡi non, rêu trắng, xích bộ nhược
là thận khí không có.
b. Bệnh lý: Thận khai khiếu ở tai, biến hoá ở tóc, thận khí không đủ, làm cho tai ù, điếc, tóc
dễ rụng. Thận chủ xương, thận khí không đủ làm cho lưng gối mỏi đau, răng lợi lung lay.
Thận hư không thể nạp khí về thận thì hụt hơi mà suyễn. Thận dương hư làm cho dương
khí toàn thân hư, chi thể không ấm, tự ra mồ hôi (dương hư nên biểu không chắc), tinh
thần không phấn chấn, đại tiện lỏng. Dương hư làm thuỷ bị sai lạc (thận hư thuỷ phiếm),
thì đái ít mà phù thũng. Mệnh môn hoả suy thì hư hàn càng nhiều, làm cho tứ chi lạnh, liệt
dương, hoạt tinh. Tảng sáng ỉa chảy là chứng của Mệnh môn hoả suy. Mệnh môn hoả suy
cũng thường kiêm không thể nạp khí, nên kiêm thấy hụt hơi, suyễn, ra mồ hôi. Nếu thận
khí bất cố (không giữ vững) thì không có sức thu nhiếp(*) làm cho hoạt tinh, sớm xuất, tiểu
tiện nhiều hoặc không cầm. Nói chung thận dương hư, mạch thường hư phù mà rêu lưỡi
trắng nhuận, nếu dương hư thuỷ phiếm thì lưỡi tất phì nộn (béo non) mà mạch trầm vô
lực. Nếu trầm, trì, thiên về rất hàn.
c. Phép chữa: Nên ôn bổ thận dương, thường dùng Kim quỹ thận khí hoàn gia giảm. Nếu
Mệnh môn hoả suy, ỉa chảy là chủ chứng thì dùng Tứ thần hoàn. Nếu hụt hơi, khí suyễn là
chủ chứng thì dùng Mạc tích đan.
Thận khí bất cố thì bổ thận cố sáp (giữ chắn chắn). Nếu đái nhiều là chủ chứng thì dùng
Súc tuyến hoàn. Nếu di tinh là chủ chứng thì dùng Cố tinh hoàn.
Cơ năng vỏ tuyến thượng thận giảm, cơ năng tuyến giáp giảm, thần kinh suy nhược thuộc
về thận dương hư, có thể dùng phép trên. Viêm thận mạn thuộc thận dương hư, nên bổ
thận dương kèm lợi tiểu dùng Kim quĩ thận khí hoàn gia Ngưu tất, Xa tiền. Hen phế quản
thuộc thận dương hư không nạp khí, dùng Kim quĩ thận khí hoàn gia Hồ đào nhục, Ngũ vị
tử. Nếu xuất hiện Mệnh môn hoả suy, không nạp khí thì dùng Mạc tích đan.
Bệnh đái đường, đái tháo, viêm thận mạn, đái dầm thuộc về thận khí bất cố dùng Súc
tuyến hoàn mà chữa. Đái tháo nên châm cứu huyệt Tam âm giao, Quan nguyên, Thận du,
Khí hải. Thần kinh suy nhược thuộc về thận khí bất cố, có thể dùng Cố tinh hoàn. Đái dầm
nên châm các huyệt Quan nguyên, Thận du,Tam âm giao có kèm thêm cứu nữa.
 

3. Thận âm dương lưỡng hư
a. Triệu chứng: Sắc mặt ảm đạm, tóc dễ dụng, răng lung lay, miệng khô, tâm phiền, mồ hôi
trộm, sợ rét, chi lạnh, di tinh, đái dầm, lưỡi nhạt có rãnh nứt, rêu mỏng, mạch trầm tế hoặc
nhược (chìm, nhỏ hoặc yếu).
b. Bệnh lý: Do âm dương giúp nhau từ gốc, âm hư lâu ngày dẫn đến dương hư; dương hư
cũng dẫn đến âm hư. Thận âm dương hư cả sẽ dẫn đến những chứng của cả âm, dương
đều hư. Khi biện chứng phải căn cứ tình huống cụ thể vào gốc bệnh mà châm, dùng thuốc
đúng bệnh.

(*) Thu thiếp: Gom giữ xuống.

c. Phép chữa: Nên cùng bổ thận âm, thận dương, dùng Thục địa, Sơn dược, Câu kỷ tử, Đỗ
trọng, Sơn thù nhục, Thỏ ty tử, Tang thậm, Phục linh, Chích cam thảo (gia giảm Tả qui
ẩm, Hữu qui ẩm). Nếu nghiêng về dương hư nhiều, có thể gia Ba kích, Nhục quế; nghiêng
về âm hư nhiều thì liệu mà gia Quy bản, Miết giáp, Đan bì.
Trên đây là kể thận âm hư, thận dương hư. Đối với tên bệnh của Tây y, nếu như có xuất
hiện thận âm hư, thận dương cũng hư thì cách chữa như trên.
 

4. Tâm thận bất giao
a. Triệu chứng
: Tim hồi hộp, buồn bã, váng đầu, mất ngủ, tai ù, điếc, hay quên, lưng gối
mỏi, đau, lưỡi non, hồng, mạch tế hoặc tế sác.
b. Bệnh lý: Tim và thận giúp nhau chế ước, giúp nhau trợ sinh, cùng phò cùng thành. Nếu
tim, thận mất điều hoà sinh ra tim hồi hộp, rối loạn thần kinh tim, mất ngủ, tai ù, điếc, lưng
gối đau mỏi.
c. Phép chữa: Nên dưỡng tâm thận, dùng Lục vị địa hoàng thang gia Ngũ vị tử, Toan táo
nhân, Pháp Bán hạ. Nếu có mộng di tinh gia Liên tu, Khiếm thực. Nếu hư hoả vượng, mất
ngủ nhiều, thì gia Hoàng liên, Nhục quế tâm (Hoàng liên dùng để thanh tâm hoả ở tim, gia
Nhục quế nhập thận để dẫn hoả quy nguyên, làm ngược tình thế để giao thông tâm thận.
Phương này được gọi là Giao thái hoàn).
Chứng thần kinh chức năng thuộc về tâm thận bất giao, có thể dùng phép trên để chữa.
 

5. Bàng quang thấp nhiệt
a. Triệu chứng
: Sốt cao hoặc sợ gió, đái dắt, đái vội, đái đau, hoặc đái liên miên, đái tự
nhiên đứt, nước đái đục, có cát sỏi, rêu lưỡi vàng hoặc trơn, mạch sác (nhanh).
b. Bệnh lý: Bàng quang thấp nhiệt, nội nhiệt thịnh làm cho phát sốt. Nếu kiêm biểu chứng thì
thấy sợ lạnh. Bàng quang thấp nhiệt chú xuống dưới thì đái khó, đái són, đái vội, đái đục,
buốt, đái luôn không thấy dứt. Thấp nhiệt nóng ở trong lâu ngày thì đái có cát sỏi; thấp
nhiệt quá thịnh thì đái có máu mủ. Rêu lưỡi vàng trơn, mạch sác là tượng mạch và tượng
lưỡi của thấp thịnh.
c. Phép chữa: Nên thanh nhiệt, lợi niệu, dùng Bát chính tán gia Kim sa tàm, Diệp hạ châu,
Kim ti thảo. Nếu có cát sỏi gia Kim tiền thảo, Hải kim sa. Nếu đi đái ra máu thì gia thuốc
mát máu, cầm máu như Sinh địa hoàng, Đại kế, Tiểu kế, Bạch mạo căn, Tử châu thảo.
Viêm đường tiết niệu hoặc sỏi, viêm cấp tính tuyến tiền liệt thuộc về bàng quang thấp
nhiệt, có thể dùng phép trên mà chữa. Nếu bí đái thuộc bàng quang thấp nhiệt có thể
dùng Bát chính tán, hoặc gia nhĩ tâm (Thận khu, Bàng quang khu) để chữa.
 

B. Điểm chủ yếu để luận trị về bang quang và thận
a.
Bệnh của thận ít thực chứng, không có biểu chứng. Thận hàn là do dương hư đưa đến.
Thận hoả vượng là do âm hư đưa đến. Cách chữa căn bản là bổ thận dương, tư thận âm
(tư là giúp nuôi).
Thận chủ màng tinh, nên phép bổ dương thường trên cơ sở bổ âm, gia thêm thuốc bổ âm,
gia thêm thuốc bổ dương như phương bổ dương nổi tiếng Kim quỹ bổ khí hoàn là tư thận
âm trên cơ sở Lục vị địa hoàng hoàn gia Phụ tử, Nhục quế để ôn thận dương. Nếu dương
quá hư có thể chuyên dùng phù dương để phối âm, nhưng chỉ là tạm, không nên dùng
lâu, nếu không sẽ chuyển thành âm hư.
b. Bàng quang và thận cùng chung biểu lý, vì vậy bàng quang hư hàn nên bổ thận dương để
trị tận gốc. Trị bàng quang thấp nhiệt thì trực tiếp thanh lợi bàng quang.
 

 
Thuốc XOANG Dạng Xịt Mới


Sau nhiều năm nghiên cứu. TT nghiên cứu và phát triển YHCT đã thành công trong việc điều chế thuốc CHỮA XOANG bằng Nam dược dưới dạng lọ xịt rất tiện lợi và hiệu quả.



Chi tiết, xin liên hệ:
Ông Đinh Lai Thịnh
Giám đốc TT NC&PT YHCT
ĐT: 01229227695
hoặc 0913530220



Website liên kết




   Trang trước Lên trên   

Copyright © Dokinhlac.com.vn - Email:Laithinh1966@gmail.com
Đã có tổng số: (đang Online: 2) 2587871 lượt người truy cập vào Website này!