Text Link Underline Remover
   
Tab
 Trang chủ    Giới thiệu chung    Hoạt động    Trung tâm y học cổ truyền    Sản phẩm    Tài liệu tham khảo   Liên hệ
     index noidung 1
IV - HUYỆT ĐẶC ĐỊNH (HUYỆT THEO ĐẶC TÍNH NHẤT ĐỊNH)


Trong kinh nguyệt có một số huyệt vị có tác dụng trị liệu đặc thù gọi là huyệt đặc định. Do có đặc tính nhất định, cho nên nó được quy nạp lại giới thiệu riêng, để trên lâm sàng phát huy tác dụng được tốt hơn.

A. Nguyên huyệt

Là chỗ chủ yếu của kinh khí trong các kinh qua lại, những huyệt này hầu hết nằm ở xung quanh khớp cổ tay, khớp cổ chân. Do khí của tạng phủ thông qua kinh lạc thường biểu hiện ở những huyệt này, vì thế nó và tạng phủ coa quan hệ mật thiết vô cùng, mỗi tạng phủ có bệnh biến thường thường phản ứng ở nguyên huyệt của kinh đó. Vì thế cho nên người xưa đã có câu “Ngũ tạng có bệnh, lấy mười hai nguyên”. Điều đó nói lên rằng nguyên huyệt có tác dụng to lớn trong việc chữa bệnh phủ tạng. Huyệt vị của nguyên huyệt ở bảng 5.

Bảng 5 - Huyệt vị và kinh của nguyên huyệt

Tên huyệt Tên kinh Tên huyệt Tên kinh
Thái uyên Phế kinh Thần môn Tâm kinh
Đại lăng Tâm bào kinh Thái bạch Tỳ kinh
Thái khê Thận kinh Thái xung Can kinh
Uyển cốt Tiểu trường kinh Dương trì Tam tiêu kinh
Hợp cốc Đại trường kinh Kinh cốt Bàng quang kinh
Khâu khư Đảm kinh Xung dương Vị kinh


B. Lạc huyệt
“Lạc” là ý nghĩa liên lạc, thông qua lạc huyệt có thể làm cho 12 kinh mạch có quan hệ biểu lý hai kinh, vì vậy gọi là lạc huyệt. Vì lạc huyệt có tác dụng liên quan, cho nên 12 kinh mạch mới thành một vòng đai kín, và dùng vào trị bệnh ở hai kinh biểu lý liên quan có bệnh. 14 kinh lạc đều có lạc huyệt, riêng tỳ kinh có hai lạc huyệt, gộp lại có 15 lạc huyệt. Huyệt vị của lạc huyệt ở bảng 6.

Bảng 6 - Huyệt vị và kinh của Lạc huyệt

Tên huyệt Tên kinh Tên huyệt Tên kinh
Nội quan Tâm bào kinh Liệt khuyết Phế kinh
Thông lý Tâm kinh Đại chung Thận kinh
Công tôn Tỳ kinh Chi chính Tiểu trường kinh
Lãi câu Can kinh
Ngoại quan Tam tiêu kinh Thiên lịch Đại trường kinh
Phi dương Bàng quang kinh Quang minh Đảm kinh
Phong long Vị kinh Trường cường Đốc mạch
Cưu vỹ Nhâm mạch Đại bao Tỳ kinh đại lạc


C. Bối du huyệt

Là chỗ khí tạng phủ luân chuyển ở vùng lưng, vì vậy gọi là du huyệt. Tuy nó phân cáhc dều trục giưac ở lưng là 1,5 thốn trên đường bàng quang kinh, nhưng vì nó tương thông với các tạng phủ. Khi tạng phủ có bệnh, thường thường du huyệt tương ứng trên lưng sẽ xuất hiện cảm giác ấn đau hoặc tê tức, vì vậy, chữa bệnh của bạn tạng tại du huyệt Vị du, bệnh thận lấy huyệt Thận du. Bối du huyệt ngoài việc chữa bệnh tạng phủ ra, lại có tác dụng chữa các khí quản liên quan, như cai khan khiếu ở mắt, châm Can du có thể chữa được bệnh ở mắt. Huyệt vị của huyệt Bối du ở bảng 7.

Bảng 7 - Huyệt vị và tạng phủ tương thông của bối du huyệt

Tên huyệt Tên kinh Tên huyệt Tên kinh
Tâm du Tâm Can du Can
Tỳ du Tỳ Phế du Phế
Thận du Thận Quyết âm du Tâm bào
Đại trường du Đại trường Tiểu trường du Tiểu trường
Tam tiêu du Tam tiêu vị du Vị
Bàng quang du Bàng quang Đảm du Đảm


D. Mộ huyệt

“Mộ huyệt” có ý nghĩa là kết tụ lại, nơi khí của tạng phủ kết tụ ở ngực, bụng gọi là mộ huyệt, ý nghĩa lâm sàng của nó tương ứng với nó, nó cá tác dụng đặc thù. Như bệnh dạ dày, lấy huyệt Trung quản, bệnh bàng quang lấy huyệt Trung cực. Huyệt vị của mộ huyệt ở bảng 8.

Bảng 8 - Huyệt vị và tạng phủ tương ứng của mộ huyệt.

Tên huyệt Tên tạng phủ Tên huyệt Tên tạng phủ
Cự khuyết Tâm Chiên trung Tâm bào
Trung quản Vị Thạch môn Tam tiêu
Quan nguyên Tiểu trường Trung cực Bàng quang
Trung phủ Phế Kỳ môn Can
Nhật nguyệt Đảm Chương môn Tỳ
Kinh môn Thận Thiên khu Đại trường


Đ. Khích huyệt
“Khích” có nghĩa là lỗ trống không (theo Tứ giác hiệu mã tân từ điển thì khích là oán trách). Khích huyệt là nơi kinh khí tụ ở sâu, do đó gọi là khích huyệt. Khích huyệt phân phối ở tứ chi, phần lớn là ở phía dưới khuỷu và đầu gối. Mỗi kinh trong 12 kinh đều có một khích huyệt. Nó có thể chữa bệnh ở nơi đường kinh tuần hành và cả các loại bệnh ở tạng gốc sở thuộc, nhưng trên lâm sàng thường để chữa bệnh cấp tính, chứng đau, chứng viêm. Như đau ngực, tim, lấu huyệt Khích môn, đau dạ dày lấy huyệtLương khâu.

Bảng 9 - Huyệt và kinh của khích huyệt

Tên huyệt Tên kinh Tên huyệt Tên kinh
Khổng tối Phế kinh Khích môn Tâm bào kinh
Âm khích Tâm kinh Lương khâu Vị kinh
Ngoại khâu Đảm kinh Kinh môn Bàng quang kinh
Ôn lưu Đại trường kinh Hội tông Tam tiêu kinh
Dưỡng lão Tiểu trường kinh Địa cơ Tỳ kinh
Trung đô Can kinh Thuỷ tuyền Thận kinh


E. Bát hội huyệt

Là nơi hội họp của tám thứ tạng, phủ, khí, huyết, gân, mạch, xương, tuỷ. nạn thứ 45 trong “Nạn Kinh” nói “Bệnh nhiệt trong, lấy khí huyết hội của cái đó” (Nhiệt bệnh tại nội giả, thủ kỳ hội chi khí huyết dã), ứng dụng lâm sàng, không giới hạn ở bệnh nhiệt, mà nặng về phía bệnh nội chứng. Thuộc về bệnh chứng của một số mặt, có thể sử dụng hội huyệt hữu quan, ở bảng 10.

Bảng 10 – 8 hội huyệt

Tạng hội = Chương môn Phủ hội = Trung quản Khí hội = Chiên trung
Huyết hội = Cách du Cân hội = Dương lăng tuyền Mạch hội = Thái Uyên.
Cốt hội = Đại trữ Tuỷ hội = Tuyệt cốt

12 kinh mạch ở tứ chi từ khuỷu tay và đầu gối trở xuống đều có 5 loại huyệt đặc định là Tỉnh, Huỳnh, Du, Kinh, Hợp, gọi là ngũ du huyệt. Từ đầu gót của tứ chi hướng về khuỷu và đầu gối, mạch khí dàn ra từ ngỏ đến lớn, từ nông đến sâu, từ xa đến gần, do đó nói: “chỗ xuất ở Tỉnh, chỗ lưu là huỳnh, chỗ trú là Du, chỗ hành là Kinh, chỗ nhập là Hợp”. (theo thiên “Cửu châm thập nhị nguyên” sách Linh Khu), đó là lấy đặc điểm hình dung theo tên gọi của dòng nước chảy “Tỉnh” là nguồn từ dưới đất ra, hình dung về mặt khí nông, nhỏ, huyệt đó thường ở cạnh móng của ngón tay chân. “Huỳnh” là nước thành dòng nhỏ, mạch khí hơi lớn, huyệt đó ở chỗ vùng ngón, bàn của tay chân. “Du” là vận chuyển, mạch khí đã rất thịnh, huyệt đó thường ở chỗ khớp cổ tay, cổ chân và phụ cận, “Kinh” là dòng nước lớn, mạch khí chảy và trú ở đó, huyệt thường ở vùng xung quanh khớp cổ tay, cổ chân và cẳng tay, cẳng chân. “Hợp” là xoáy hợp lại, mạch khí sâu lớn, huyệt thường ở xung quanh kgớp khuỷu tay, đầu gối; bảng 11.
Ứng dụng trên lâm sàng của ngũ du huyệt, sách Linh khu nói rằng: “bệnh tại tạng, lấy ở Tỉnh; bệnh biến ở màu sắc lấy ở Huỳnh; bệnh có lúc tăng, lúc giảm, lấy ở Du; bệnh biến ở tiếng (âm) lấy ở Kinh; mãn kinh mà có máu cũng như bệnh ở dạ dày và ăn uống không điều độ mà mắc bệnh, lấy ở Hợp”. Nạn thứ 68 của “Nạn kinh” lại đã nói thêm cho rõ hơn là: “Tỉnh huyệt chữa đầy tức dưới tâm, Huỳnh huyệt chữa mình nóng sốt, Du huyệt chữa mình nặng khớp đau, Kinh nguyệt chữa ho hắng, nóng rét, Hợp huyệt chữa nghich khí mà tiết”. Đó là cách nói về ngũ du huyệt và các đặc điểm chủ trị của nó, chúng ta ghi nhận để tham khảo ứng dụng trên lâm sàng.

Bảng 11 - Bảng ngũ du huyệt ở 12 kinh mạch
Knh mạch Ngũ du

Kinh mạch Ngũ du
Ngũ tạng Tỉnh Huỳnh Du Kinh Hợp
Phế Thiếu thương Ngư tế Thái uyên Kinh cừ Xích trạch
Tâm bào Trung xung Lao cung Đại lăng Gian sử Khúc trạch
Tâm Thiếu xung Thiếu phủ Thần môn Linh đạo Thiếu hải
Tỳ Ẩn bạch Đại đô Thái bạch Thương khâu Âm lăng tuyền
Can Đại đôn Hành gian Thái xung Trung phong Khúc tuyến
Thận Dũng tuyền Nhiên cốc Thái khê Phục lưu Âm cốc
Lục phủ Tỉnh Huỳnh Du Kinh Hợp
Đại trường Thương dương Nhị gian Tam gian Dương khê Khúc trì
Tam tiêu Quan xung Dịch môn Trung chử Chi câu Thiên tỉnh
Tiểu trường Thiếu trạch Tiền cốc Hậu khê Dương cốc Tiểu hải
Vị Lệ đoài Nọi đình Hãm cốc Giải khê Túc tam lý
Đảm Khiếu âm Hiệp khê Lâm khấp Dương phụ Dương lăng
tuyền
Bàng quang Chí âm Thông cốc Thúc cốt Côn luân Ủy trung


Hợp huyệt trong ngũ du huyệt đối với bệnh tạng phủ có tác dụng rất trọng yếu. Thiên “ Tà khí tạng phủ bệnh hình”, sách “Linh Khu” nói:” Huỳnh, Du chữa bệnh ở ngoài kinh lạc, Hợp chữa bệnh ở trong tạng phủ”. Trị bệnh của lục phủ bằng Hợp huyệt, lại lấy hợp huyệt của túc tam dương kinh là chính. Vị, bàng quang,đảm ra ở túc tam dương mà đại trường, tiểu trường, tam tiêu tuy nhiên hợp trên ở thủ kinh, đồng thời cũng xuất hiện ở túc tam dương. Như thiên Bản luận sách” Linh Khu” đã nói: “Lục phủ đều ở túc tam dương, hợp ở trên tay”. Đó là do lục phủ ở trong vùng bụng, có quan hệ với túc kinh rất mật thiết, vì vậy ở trên túc tam dương kinh đều có các hợp huyệt đó.Vị hợp ở túc tam lý.đại trường hợp ở thượng cự hư.tiểu trường hợp ở hạ cư hự, đều thuộc túc dương minh vị kinh.
Thiên “Bản luận” lại nói: “Đại trường, tiểu trường đều thuộc ở vị”, đó là nói công năng sinh lý trên dưới tương thừa.bàng quang hợp ở Uỷ trung, tam tiêu hợp ở uỷ dương đều thuộc túc thái dương bàng quang kinh, là do thuỷ đạo ở tam tiêu xuất ra có quan hệ thuộc về bàng quang.Đảm hợp ở Dương lăng tuyền. Trên vừa kể là hạ hợp huyệt của bệnh lục phủ, hoặc gọi là “Phủ bệnh hợp luân”.

Bảng 12 - Bảng lục phủ hạ hợp huyệt


H. Bát mạch giao hội huyệt

Là 8 huyệt vị ở tứ chi thông với 8 mạch kỳ kinh.Kỳ kinh bát mạch tuy không tuần hành tất cả trên tứ chi, nhưng do chúng có quan hệ giao hội với 12 kinh mạch, cho nên huyệt vị ở vùng tứ chi đều có thông với kỳ kinh, trên mặt điều trị thích ứng, có quan hệ tới bệnh chứng của kỳ kinh.Bát mạch giao hội huyệt ở chi trên và chi dưới, khi ứng dụng thường phải phối hợp.

Bảng 13 - Bảng phối hợp bát mạch giao hội huyệt và tác dụng của nó như sau

Bản kinh Bát huyệt Thông bát mạch Chủ trị
Túc thái âm
Thủ quyết âm
Công tôn
Nội quan
Xung mạch
Âm duy
Tim, ngực, dạ dày
Thủ thái dương
Túc thái dương
Hậu khê
Thân mạch
Đốc mạch
Dương kiểu mạch
Khoé mắt trong, háy cổ, tai, vai
và cánh tay trên, tiểu trường,
bàng quang
Túc thiếu dương
Thủ thiếu dương
Túc lâm khấp
Ngoại quan
Đới mạch
Dương duy mạch
Khóe mắt ngoài, sau tai, má, cổ
vai
Thủ thái âm
Túc thiếu âm
Liệt khuyết
Chiếu hải
Nhâm mạch
Âm kiểu mạch
Hệ phế, hầu họng, ngực cách

 
Thuốc XOANG Dạng Xịt Mới


Sau nhiều năm nghiên cứu. TT nghiên cứu và phát triển YHCT đã thành công trong việc điều chế thuốc CHỮA XOANG bằng Nam dược dưới dạng lọ xịt rất tiện lợi và hiệu quả.



Chi tiết, xin liên hệ:
Ông Đinh Lai Thịnh
Giám đốc TT NC&PT YHCT
ĐT: 01229227695
hoặc 0913530220



Website liên kết




   Trang trước Lên trên   

Copyright © Dokinhlac.com.vn - Email:Laithinh1966@gmail.com
Đã có tổng số: (đang Online: 6) 2587622 lượt người truy cập vào Website này!