A. Thuốc cứu và cách chế
CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y
Thuốc cứu là lá ngải để lâu năm cho vào cối giã nhỏ thành xơ như nhung, có màu vàng nhạt.
Từ ngải nhung chế thành mồi ngải hoặc điếu ngải mà sử dụng.
1. Cách chế mồi ngải
Cấu một dúm ngải nhung khoảng bằng hột ngô, đặt lên mặt ván gỗ, dùng ba ngón tay cái, trỏ
và giữa chụm ngải nhung lại và ấn thành khối có hình tháp chóp ba cạnh, ấn hơi chắc mồi
cho khỏi rã ra.Mồi to, nhỏ tuỳ theo bệnh tình và nơi cứu mà định. Nhỏ thì như hạt lúa, vừa thì
bằng hạt ngô, lớn thì bằng quả táo. Mỗi một mồi cũng còn gọi là một tráng.
2. Cách chế điếu ngải
Dùng chế điếu ngải
Dùng một miếng giấy bản mịn, mềm, dễ bén lửa và thông khí, có hình chữ nhật rộng chừng
4 thốn, dài chừng 6 thốn, lấy khoảng 20 gam ngải nhung rải đều, trên mặt giấy, lấy miếng
ván mỏng ép cho mịn, chặt đều, các mép xung quanh đều để lộ giấy ra nửa thốn. Lấy một
sợi thép cứng mà nhẵn bóng để lên mép giấy làm lõi, từ từ cuộn vào. Khi cuộn hết thì dùng
tay hoặc mảnh gỗ ép lăn thêm cho chặt hơn, bấy giờ rút sợi thép ra rồi dùng hồ dán lại, thế
là thành một điếu ngải to gần bằng ngón tay. (H30) 
Hình 30. Cách làm điếu ngải
B. Thao tác cứu ngải
1. Cứu trực tiếp
Đem mồi ngải đã chế đặt lên trên huyệt vị, dùng hương đặt lên đầu nhọn của mồi ngải thổi
nhẹ cho bén lửa. Khi mồi ngải cháy khoảng hai phần ba chiều cao, bệnh nhân kêu thấy nóng
hơi nhiều thì bỏ ra, lại thay mồi khác. (H31)

Hình 31 . Cứu trực tiếp
2. Cứu gián tiếp
Trước khi cứu đặt lên trên huyệt vị một loại riêng nào đó (tỏi, gừng,vải) rồi lại dùng mồi ngải
đặt lên trên mà cứu, nhưu thế gọi là cứu gián tiếp. Do vật đặt lên huyệt khác nhau cho nên
cứu gián tiếp có những tên khác nhau, lâm sàng thường dùng có bốn loại là (H32)
a. Cứu cách gừng : Cắt một lát gừng sống dày chừng ba hay bốn mm, lấy kim xâu qua
thành nhièu lỗ rồi đặt lên huyệt vị. Đặt mồi ngải lên trên miếng gừng mà đốt lửa, đến khi,
bệnh nhân cảm thấy nóng rát thì thay màu khác. Cứ tiếp tục đốt như thế cho đến khi thấy
mặt da đỏ ửng thì thôi. Cách cứu này hợp với chứng nôn mửa, tả lỵ, đau bụng và bệnh tật
thuộc chứng hàn.
b. Cứu cách tỏi : Cắt một lát tỏi độc (cả củ là một tép). Cách làm như lát gừng kể trên rồi
cứu. Cách cứu này dùng cho phong lỗ rốn, trẻ em đau rốn uốn ván, trùng thú cắn. 
Hình 32 . Cứu gián tiếp
c. Cứu cách muối : Dùng muối ăn khô, sạch bỏ đầy ngang bằng lỗ rốn, đặt mồi ngải lên mà
đốt. Cách cứu này rất tốt đối với các chứng tiêu chảy, đau bụng cấp tính, thổ tả, đẻ xong
xây xẩm choáng váng, hư thoát.
d. Cứu cách vải : Đặt một miếng vải rộng lên trên vùng huyệt vị có lông, tóc; dùng tay trái
căng đè miếng vải để ép lông, tóc sát da mặt, đánh dấu huyệt vị lên vải, đặt mồi ngải lên dấu huyệt vị rồi châm lửa. Cách cứu này để tránh làm cháy lông tóc.
3. Cứu bằng điếu ngải
Lấy điếu ngải đốt một đầu, chiếu thẳng diểm than lửa trên đầu điếu ngải vuông góc với huyệt
vị mà hơ. Căn cứ vào cảm giác của người bệnh mà hơ xa hay hơ gần mặt da, hoặc tuần tự
nâng ra xa, lại đưa vào gần theo nhịp, sao cho cảm giác không rát mà chỉ nóng ấm là đủ.
Mỗi lần cứu từ 5 đến 30 phút, đến khi có cảm giác chỗ đó nóng ấm dễ chịu, và có một vầng
ửng hồng thì thôi cứu. Cách cứu này rất tốt và phù hợp với bệnh mạn tính, rối loạn tiêu hoá,
phong hàn đau đớn và tê bại cục bộ.(H33). 
Hình 33-34. Hơ điếu ngải - Ôn kim cứu
4. Ôn châm cứu : Cũng còn gọi là ôn châm, hoặc gọi là cứu cán kim hay ôn kim cứu. Khi lưu
kim, lấy ngải nhung vê thành cục khoảng bằng hạt táo, bó vào cán kim mà đốt, lửa của ngải
chuyền nhiệt theo thân kim vào huyệt. Số mồi ngải nhiều hay ít căn cứ vào bệnh tình mà
định. Để tránh than ngải hoặc tàn hương rơi xuống bỏng da, trước đo lấy một miếng giấy dày
làm thành miếng tròn có lỗ thủng ở giữa đỡ dưới quanh thân kim để hứng những tàn lỡ rơi
xuống. (H34)
5. Chú ý sự cố khi cứu
a. Khi cứu cần đặt tư thế người bệnh thật tốt, dặn người bệnh không được giẫy động, để
tránh bỏng da.
b. Không để than ngải hoặc tàn hương rơi xuống gây bỏng da hoặc cháy quần áo, đệm, ga.
c. Khi cứu cách gừng, cách tỏi rất dễ bị nổi phồng ở huyệt vị, cần chú ý thay những lát gừng,
tỏi. Nếu nổi phồng thì lấy kim chích nước ra, dán băng dính lại để đề phòng nhiễm trùng.
d. Khu vực mặt, khu vực ngũ quan, trên mạch máu lớn và lân cận kết mạc thì không nên
cứu.
đ. Bệnh thực chứng, nhiệt chứng thì không nên cứu.
|